Đòn đánh - Khái niệm cơ bản
Trong võ thuật, đòn đánh là
khái niệm dùng để chỉ
những vận động của người
phát lực nhằm gây ra tác
động bất lợi cho đối thủ.
Những tác động bất lợi đó
thể hiện bằng sự tê liệt, đau
đớn dữ dội, bất tỉnh, nội
thương, ngoại thương hoặc
cao nhất là cái chết của
người bị trúng đòn.
Các dạng đòn đánh:
Với mục tiêu đạt được hiệu
quả tính như đã nói trên,
đòn đánh bao gồm không
chỉ các đòn tấn công trực
diện, trực tiếp, các đòn phản
công, mà thậm chí có thể
tính đến cả các đòn đỡ gạt
dương cương nếu các chiêu
thức đó gây ra được chấn
thương cho đối phương,
như sự hóa giải đòn của đối
phương bằng một vũ khí
mạnh mẽ hơn (chẳng hạn khi
bị đối phương tấn công
bằng đòn chân, ta dùng tay
đỡ của mình chặt mạnh hay
đấm mạnh vào ống chân,
đầu gối đối phương). Tuy
nhiên, sẽ không được gọi là
đòn đánh nếu các động tác
đỡ gạt đó không gây ra
chấn thương cho đối
phương mà chỉ là sự triệt
tiêu lực kiểu "dẫn đòn đối
phương vào khoảng không"
thường được các võ phái
nhu quyền sử dụng, khi đó
đòn đỡ gạt được gọi là đòn
hóa giải.
Tên gọi của đòn đánh:
Tùy cách thức thực hiện đòn
đánh và tùy thuộc cả các võ
phái, tên gọi của các đòn
đánh có thể rất khác nhau.
Trong khi có những võ phái
sử dụng các tên gọi thiên về
tính hình tượng và ẩn dụ thì
một số võ phái khác lại sử
dụng các tên dân dã và trực
tiếp. Một số ví dụ sơ lược:
Hoa quyền sử dụng tên Bàng
long cước để chỉ đòn đá
bằng cạnh bàn chân, trong
khi Taekwondo chỉ đơn
thuần gọi là Đá tống ngang
(Yeop-chagi); hay đòn xoay
tay mang tên Vân thủ (tay
mây) trong Thái Cực quyền,
Vịnh Xuân quyền chỉ gọi
bằng tên đơn giản là Khuyên
thủ (tay quay tròn). Bởi vậy,
khi bàn về tên gọi của các
đòn đánh hầu như không
thể có một đáp số chung cho
mọi chiêu thức. Trong thực
tế tên gọi các đòn đánh
trong tiếng Việt có thể
được quy ước bằng rất
nhiều dạng vắn tắt như
đấm , đá, đạp, chặt, đâm,
móc, đập, ép, chặn, thúc, lên
gối, huých (chỏ), húc (đầu)
v.v.
Sức mạnh đòn đánh:
Sức mạnh của đòn đánh
trong võ thuật biểu hiện
tính hiệu quả của lực tác
động từ người tấn công đến
mục tiêu (chẳng hạn như cơ
thể đối phương). Sức mạnh
đó được thực hiện bằng
cách vận dụng, thu góp tất
cả năng lực phát sinh ra từ
sự co lại của các bắp thịt rồi
dồn tất cả năng lực ấy vào
mục tiêu, nhất là các yếu
điểm trên cơ thể đối
phương trong đó có các
huyệt đạo.
Các nguyên tắc thực hiện
đòn đánh:
Sức mạnh và tính hiệu quả
của đòn đánh chỉ có được
nhờ các yếu lĩnh, nguyên tắc
đã được võ sinh tập luyện
nhuần nhuyễn
Tập trung sức lực:
Trước hết, sức mạnh chỉ có
được khi tập trung sức
đúng lúc, đúng chỗ dựa theo
nguyên tắc khi đấm hoặc đá,
năng lực di chuyển từ trung
tâm cơ thể tới các phần khác
của cơ thể với vận tốc
1/1000 giây. Thời gian từ
khi bắt đầu đến khi kết thúc
động tác chỉ kéo dài khoảng
1/5 đến 1/18 giây nếu ta
thực hiện đúng kỹ thuật và
tập trung.
Điểm chạm:
Điểm chạm mục tiêu càng
nhỏ càng tốt nhằm hỗ trợ
sức xuyên thấu và tập trung
lực của đòn đánh, phải đánh
với diện tích tiếp xúc nhỏ
nhất bằng cách tập trung
lực tối đa vào đầu vũ khí sẽ
tác động đến mục tiêu. Chọn
loại vũ khí cơ thể phù hợp
nhất cho mỗi đòn đánh,
chẳng hạn các đòn x** ngón
tay dẫn đạo trong Triệt
Quyền Đạo hay chọt thẳng
bằng nắm đấm với ngón
giữa nhô lên mang tên Bam-
joomeok trong Taekwondo
tạo ra một diện tích tiếp xúc
nhỏ, bao giờ cũng gia tăng
hiệu quả đâm xuyên huyệt
đạo hơn là các đòn đập bằng
cạnh ngoài, cạnh trong nắm
đấm hay gõ bằng lưng nắm
đấm.
Độ cứng:
Độ cứng của món binh khí
đem dùng hết sức quan
trọng để giúp người ra đòn
không bị chấn thương do
phản lực khi đòn chạm mục
tiêu, đồng thời gia tăng đặc
tính xuyên phá của đòn. Độ
cứng của đòn đánh ra phụ
thuộc vào vật ra đòn (cạnh
tay, mũi bàn tay, đầu gối, cùi
chỏ v.v.), cách sử dụng nó và
yếu tố quyết định là việc
khổ luyện thường xuyên
liên tục những phần vũ khí
cơ thể đó trên những vật
cứng như bao cát, gạch,
ngói, gỗ bản v.v.
Vận tốc ra đòn:
Vận tốc ra đòn được đặc
biệt lưu ý, trong mối tương
quan với diện tích tiếp xúc,
sức mạnh của đòn đánh tỷ lệ
thuận với vận tốc và tỷ lệ
nghịch với diện tích tiếp
xúc, theo đó diện tích tiếp
xúc càng nhỏ, vận tốc càng
lớn thì lực đánh ra càng
mạnh. Một cao thủ Karate có
thể đạt vận tốc tối đa là 43
feet tương đương khoảng
129m/giây, đồng thời phát
ra một lực công phá khoảng
1.500 pound (tương đương
với 750kg).
Giải phóng khí:
Một yếu tố nữa cũng hết sức
quan trọng, đó là tiếng thét
vào thời điểm ra đòn. Tiếng
thét đó tạo nên sự giải
phóng năng lượng đã được
dồn nén, tích trữ, có tác
dụng cướp tinh thần đối
phương và hỗ trợ phát lực
hữu hiệu. Thét như một quả
bom nổ sát cạnh địch thủ,
để tần số âm thanh vọt lên
đến 16.000 xung động một
giây, nói cách khác là thét
với một thời gian ngắn nhất
mà cường độ âm thanh và
tần số dao động cao nhất.
Các nguyên tắc khác:
Lực công phá của đòn đánh
còn được hỗ trợ bởi động
tác xoay hông mà không chỉ
đơn thuần là lực của cơ tay
hay cơ chân. Xoay hông khi
tung quả đấm hay đòn đá
giống như động tác xoay
người của vận động viên đá
cầu, phải vừa nhẹ nhàng
vừa nhanh, đồng thời phải
thích ứng với năng lực tung
ra. Năng lực phát ra do xoay
hông được truyền tới cột
sống rồi đến các bắp thịt
của ngực và vai, cuối cùng
tới cánh tay, hoặc đến các
bắp thịt của hông, đùi và từ
đó truyền đến bàn chân,
đầu gối.
Cũng không hiếm khi, với sự
hỗ trợ của xước mã, xoáy
đòn hay nhảy lên tấn công
(xem Đá bay), lực đánh sẽ
được tăng cường đáng kể.
Không theo lý giải của khoa
học hiện đại mà dựa trên
những nguyên lý, ca quyết
võ thuật đúc kết nhiều đời,
các võ sư cho rằng, sức
mạnh của đòn đánh thể hiện
sự hòa hợp của nội tam hợp
(tâm hợp ý, ý hợp khí, khí
hợp lực) và ngoại tam hợp
(tay hợp chân, chỏ hợp gối,
vai hợp háng) gọi tắt là lục
hợp.
Thêm vào đó, các võ phái
đều nhấn mạnh đến các yếu
quyết khác nhằm gia tăng
tính hiệu quả của đòn đánh
ra, chẳng hạn như nguyên
tắc bảo mật (không lộ ra kế
hoạch tấn công và phương
án phòng thủ), bảo toàn
(tấn công địch với tổn thất
ít sức lực nhất, giữ đều nhịp
thở, ra sức vừa phải), linh
hoạt (tối kị sự sáo mòn, sử
dụng đòn hợp lý, chiêu thức
ảo diệu, trong công có thủ,
trong thủ có công), lợi thế
(xác định chính xác mục
tiêu, động tác ảo có thể
thành thực, thực có thể
thành ảo trong nháy mắt),
công vi thủ (tấn công là cách
phòng thủ tốt nhất).v.v...
Các vũ khí cơ thể:
Vũ khí cơ thể là những bộ
phận trên cơ thể được sử
dụng như một thứ vũ khí
trong đòn đánh. Các vũ khí
cơ thể dùng để thi triển một
đòn đánh rất đa dạng và tùy
thuộc bộ môn võ thuật khác
nhau, tuy nhiên chúng
thường bao gồm những bộ
phận sau:
Tay (thủ)
Những phần tác động đến
đối thủ hiệu quả của tay
như nắm đấm (với đấm
thẳng, đấm vòng cầu, đấm
chéo, đấm móc, đấm xoáy);
nắm đấm búa (sử dụng các
khớp xương để ký, gõ khi
tay được nắm thành nắm
đấm); ngón tay với các đòn
x**, đâm, chọc được coi là
đòn đánh bằng tay dài nhất,
thường dùng một ngón
(nhất dương chỉ, hai ngón
(ngón trỏ và ngón giữa chập
lại để tăng sức mạnh tấn
công hoặc xòe hết cỡ để
đâm vào hai mắt đối thủ) và
cả bàn tay (khi dùng cả bàn
tay thì các ngón giữa
thường được co lại để tạo
độ dài bằng nhau của các
ngón); cạnh tay để chặt (còn
được gọi là Cương đao phạt
mộc trong võ cổ truyền Việt
Nam, Đường lang chưởng
trong võ Trung Quốc, tay
Hạc trong bài Hạc Quyền
thuộc hệ thống Ngũ hình
quyền) có thể dùng cả cạnh
bàn tay và cạnh sống bàn
tay; nhượng tay thường
được gọi với tên thông
dụng là "chưởng" dùng đánh
thẳng, đánh móc; tay trảo là
các ngón tay mở ra, có các
dạng được gọi là Hổ trảo
hay Long quyền thường
dùng để móc, bấu, véo v.v.
Trong thực tế người ra đòn
thường tấn công bằng một
tay, một tay khác để phòng
thủ hoặc dự phòng tấn
công, tuy nhiên cũng không
hiếm khi thấy các đòn đánh
sử dụng đồng thời cả hai
tay (chẳng hạn hai tay ra
đòn đấm đồng thời gọi là
"Song phong quán nhĩ" (hai
luồng gió thổi vào tai) trong
Thái Cực Quyền hay mang
tên "Song long xuất hải" (hai
rồng ra biển) trong một số
võ phái cổ truyền.
Các đòn đánh bằng tay
thường linh hoạt và phong
phú hơn hẳn các đòn đánh
bằng chân. Thống kê ít nhiều
có tính võ đoán cho thấy
trong võ thuật số lượng đòn
tay có thể nhiều gấp 7 lần
đòn chân.
Cùi chỏ (chẩu):
Cùi chỏ được sử dụng bằng
cách đòn chỏ tréo từ trên
xuống, chỏ ngang, chỏ vòng
ngang, chỏ cắm, chỏ đánh
tốc ngược lên, đánh chỏ về
phía sau v.v. Số lượng đòn
đánh sử dụng chỏ tương đối
ít phong phú do tính đặc
thù của vũ khí này, đặc biệt
chiêu thức ra 2 đòn chỏ
đồng thời chỉ có thể thực
hiện với một số trường hợp
như giật hai chỏ về sau hoặc
đánh tạt hai chỏ ngang.
Đòn chỏ rất có uy lực khi
nhập nội và các chiêu thức
dùng cùi chỏ thường được
coi là tàn độc, các luật thi
đấu thể thao nghiêm cấm sử
dụng.
Chân (cước):
Đòn chân với những phần
tấn công đến đối thủ bao
gồm mũi bàn chân với các
ngón chụm lại (thường dùng
để đá chọt thẳng mà các võ
phái cổ truyền còn gọi là Kim
tiêu cước); ức bàn chân
dùng đá tống trước hoặc đá
vòng cầu) cạnh chân đá tống
ngang; gót chân đá chẻ, đá
hất ngược, đá móc vòng gót
hay đá láy; mu bàn chân đá
búng, đá vẩy thường tấn
công thấp vào hạ bộ đối
phương; ống chân thường
dùng khi thực hiện các đòn
quét v.v.
Đôi chân được sinh ra dùng
chống đỡ sức nặng cơ thể
nên tự thân nó đã rất chắc
chắn, mạnh mẽ. Đó vừa là
điểm hạn chế vừa là điểm
ưu của đòn chân: các đòn
chân ít linh hoạt hơn đòn
tay nhưng lại có uy lực rất
lớn. Bởi vậy, ít có công phu
luyện sức mạnh của đòn
chân mà thường môn sinh
luyện trụ vững bằng các thế
tấn, luyện sự linh hoạt cho
đôi chân bằng các động tác
xoạc, hất, đồng thời luyện
điểm tiếp xúc, phương thức
ra đòn chính xác bằng các
dụng cụ hỗ trợ như bao cát,
tấm nốp để đá.
Đầu gối (chàng):
Đòn đánh bằng đầu gối có
sức mạnh khủng khiếp, cùng
với đòn đánh bằng chỏ là
hai bộ phận thường bị các
luật thi đấu võ thuật, với
tính chất thể thao, nghiêm
cấm sử dụng.
Đòn đánh bằng đầu gối
thường dùng tấn công khi
nhập nội với các đòn đánh
gối thẳng, đánh gối vòng
cầu, đánh gối từ trên xuống,
đánh gối hất từ dưới lên.
Đầu (thủ):
Đầu thường dùng để húc,
đập. Có một số võ sư luyện
chiêu thức Thiết đầu công,
như đại lực sĩ Hà Châu là một
ví dụ, tạo ra cho đòn đánh
bằng đầu một uy lực cực
mạnh khi tấn công đối thủ.
Tuy nhiên chiêu thức tấn
công bằng đầu rất khó
luyện, nhạy cảm vì gắn trực
tiếp với não bộ rất dễ dẫn
đến chấn thương trầm
trọng nên hiện cũng ít môn
đồ luyện tập thành thục.
Một số vũ khí cơ thể khác:
Thật hiếm hoi khi thấy ngoài
chân, tay, chỏ, gối, đầu là các
vũ khí cơ thể thông dụng
nhất còn có vũ khí cơ thể
nào khác. Tuy nhiên, đôi khi
ta vẫn thấy vai, hông được
luyện tập trong các chiêu
thức huých, đẩy mặc dù rất
ít phổ biến như một đòn vai,
đòn hông đơn lẻ mà thường
sử dụng để hỗ trợ cho các
đòn đánh bằng các vũ khí cơ
thể khác.
Điểm đánh (mục tiêu tấn
công):
Điểm đánh là những phần
trên cơ thể đối phương
được các vũ khí cơ thể coi
như mục tiêu tấn công, hay
nói khác đi, điểm đánh là cái
đích của đòn đánh. Điểm
đánh thường là các bộ phận
nhạy cảm (như đầu, mặt,
mắt, cổ, ngực, vùng tim, hạ
bộ, vùng thận v.v.), các
huyệt đạo (như huyệt Thái
Dương, huyệt Mi Tâm, huyệt
Chấn Thủy v.v.), các chỗ sơ
hở trong phòng thủ của đối
phương. Phần lớn các điểm
đánh nguy hiểm nhất nằm
trên đường thẳng trung tâm
của cơ thể (còn gọi là trung
lộ) hoặc các vị trí đối xứng
nhau qua đường trung lộ.
Góc độ ra đòn (góc đánh):
Góc độ ra đòn là việc sử
dụng hiệu quả thân pháp để
di chuyển quanh đối thủ
nhằm tìm vị trí tung đòn
đánh tốt nhất. Nhưng không
chỉ có vậy, sự cải tiến góc
độ ra đòn là sự luyện tập
thay đổi vị trí chiến đấu để
xóa tan các đòn đánh của
địch thủ trong khi tạo cho
bạn một vị trí tung đòn
thuận lợi hơn. Với ý nghĩa
như vậy, góc độ ra đòn
được nhận thức đúng đắn,
thi triển hữu hiệu sẽ trở
thành một trong những
phương thức hỗ trợ tốt
nhất để người ra đòn giành
chiến thắng trong các cuộc
chiến, hay nói cụ thể hơn là
khi người ra đòn di chuyển
quanh đối thủ và chú tâm
tìm góc độ tung đòn thích
hợp thì người ra đòn có cơ
hội tốt nhất để tung đòn
đánh vào địch và địch ít có
cơ hội nhất để tung đòn
đánh vào bạn. Việc luyện tập
thân pháp hiệu quả cũng
giúp cho bản thân bạn,
trong bất cứ hoàn cảnh nào
dù là trên đường phố hay
trên sàn đấu, đều tốn ít
năng lượng hơn khi tung
đòn, di chuyển ngắn hơn và
trở nên nhanh nhẹn hơn
nhiều.
Góc độ ra đòn nhiều khi
được quy chuẩn bằng cách
chú mục vào đường thẳng
trung tâm của đối thủ
(trung lộ). Khi đối thủ tấn
công vị trí của đường thẳng
này di chuyển và người bị
tấn công sẽ nhanh chóng
chuyển vị để khiến đường
trung lộ của đối thủ bộc lộ
sơ hở. Tuy nhiên, góc độ ra
đòn cũng có thể thực hiện
bằng các phương thức lẩn ra
sau người đối thủ.
Các phương thức luyện tập
để tìm góc độ ra đòn rất
phong phú, tùy thuộc vào
môn võ và tùy thuộc sở
trường của mỗi môn sinh,
trong đó đặc biệt phổ biến
các động tác bước mở (ví dụ
bước chân trước chệch sang
hướng tréo 45 độ về bên
trái), bước khép (như bước
chân trước chệch sang
hướng bên phải 45 độ),
bước xoay (như dồn trụ lên
chân trước và tiến hành
quay chân sau một góc
khoảng 45 độ khi đang
đứng kiềm dương tấn),
bước lướt (xước mã), bước
nhảy lùi về sau v.v.
Một ví dụ điển hình của việc
tạo góc độ ra đòn thuận lợi:
hãy tưởng tượng bạn và đối
thủ đứng trên mặt đồng hồ.
Bạn ở số 6 và nhìn về số 12
trong khi đối thủ đang đứng
sau lưng bạn. Khi hắn tấn
công và nắm lấy vai bạn từ
phía sau, bạn bước lệch chân
trước lên một bước rộng
hơn vai hoặc có thể bước về
con số 2 tưởng tượng bằng
chân phải và bước chân trái
về con số 10, khi đó bạn đã
thoát khỏi khu vực bị kiềm
chế và còn có được không
gian tối ưu để phản đòn.